Đang cập nhật, xin chờ giây lát ...
Loại sản phẩm: Hãng sản xuất:
Lịch sử rapala-100 năm lauri rapala
Lên 7 tuổi, Lauri và mẹ ông Mari chuyển đến sống ở một khu nhà thờ xứ ở Asikkala, cách thủ đô Helsinki 60km. Và cũng vì chính việc chuyển đến ở nhà thờ giáo xứ nên ông và mẹ đã đổi họ theo tập tục, các tu sĩ ghi vào sổ kinh thánh. Ông và mẹ không còn mang họ Saarinen nữa mà thay vào đó, họ sẽ được đặt theo tên của ngôi làng gốc gác nơi mẹ con ông đã từng sống RAPALA. Trong tiếng Phần Lan, Rapala có nghĩa là bùn.
Mẹ Mari của ông làm việc rất chăm chỉ và là một người rất tốt, bà chuyên sửa chữa những tấm lưới trong xưởng Santeri Tommola tại khu làng giáo xứ Asikkala Sarkijarvi. Giống như hầu hết những đứa trẻ cùng độ tuổi ở thời ấy, Lauri cũng phải làm việc bất cứ lúc nào có thể. Ở Sarkijarvi không có trường học cũng không có một ngành nghề nào có thể dễ dàng kiếm ra tiền nên cuộc sống lao động của dân cư ở đây rất nặng nhọc, bằng chân tay là chủ yếu.
Đầu những năm 20, Lauri đã gặp Elma Leppanen, người làm việc cùng với mẹ ông tại xưởng Tommola. Họ cưới nhau năm 1928 và chuyển đến sống tại nhà bố mẹ của Elma tại một ngôi làng cạnh đó tên là Riihilahti, họ sống ở đó đến năm 1933.
Những năm đầu vừa mới cưới, cuộc sống của họ gặp rất nhiều khó khăn bởi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tại châu Âu. Cuộc sống càng trở nên khó khăn khi kinh tế Mỹ sụp đổ và tác động lên toàn châu Âu.
Trong những năm thiếu thốn đó, Lauri làm rất nhiều nghề khác nhau để kiếm sống như đốn củi vào mùa đông, ngư dân hoặc là công nhân nông nghiệp vào mùa hè. Khi câu cá, Lauri thường thả lưới để đánh bắt cá hồi trắng và câu sâu bằng dây câu để bắt cá chó và cá pecca, những con cá bắt được, được bán tại chợ địa phương. Lauri cũng câu cả cá hồi sông bằng cách câu rê với một con mồi cá tuế, 3 chú cá hồi sông bắt được với cân nặng hơn 4kg được bán tương đương với 2 tuần làm việc ở nhà máy.
Làm ngư dân nặng nhọc và đơn độc, nó thử thách tính kiên trì của Lauri, nhưng mà như những gì ông đã nói với các con ông sau này, ông đã được tự do khi ông đi câu. Cha chúng tôi là một người đàn ông rất đỗi khiêm nhường và là một người cha tốt, Risto, người con trai thứ 2 của Lauri nói. Ông thích dành thời gian bên bờ nước. Những kỷ niệm đẹp nhất của tôi đều liên quan đến câu cá, trời rất lạnh, thời gian giải lao, chúng tôi quay trở lại bờ và đốt củi để sưởi ấm và ăn những chiếc sandwichs do mẹ chúng tôi chuẩn bị sẵn.
Lauri sử dụng dây câu rê được gắn hàng nghìn chiếc lưỡi câu, để dánh bắt cá chó và cá pecca. Dây câu được kéo rê sau thuyền ở chỗ mái chèo gọi là Soutuvene. Ông phải rê trong khoảng 50km mỗi ngày, và tất cả các ngày trừ khi có những cơn bão đến. Lưỡi câu được mắc mồi cá tuế, những con cá mồi này ông bắt ở một cái hồ trong cánh rừng cạnh bên.
Theo Risto, cha ông câu cá hồi sông bằng chiếc cần làm thủ công. Mỗi lần cá cắn, ông thường giật qua phía trên và dòng con cá dọc theo mái chèo đến khi con cá mệt lử. Nói đến đây để các bạn hình dung ra giá trị của một con cá hồi.
Quãng thời gian ông câu cá bên bờ nước đã khiến ông suy ngẫm, quan sát tự nhiên và tập tính của những loài cá. Ông thường vừa chèo thuyền chậm rãi vừa quan sát những đàn cá tuế trong làn nước trong, rồi ông nghe thấy tiếng vỗ bum trên mặt nước, một chú cá tuế biến mất trong miệng của một con cá săn mồi hám ăn. Sau rất nhiều năm, Lauri nhận thấy rằng một điều gì đấy khiến con cá tuế bị tấn công khi đang bơi trong một bầy cá. Nhờ vào sự quan sát tỉ mỉ về cách bơi của con cá tuế nhấp nhô, nhẹ nhàng nhưng lệch lạc như một con cá bị thương hoặc bị mệt đã làm thay dổi cuộc đời Lauri.
Cha chúng tôi hiểu rất rõ về câu cá, Risto nói. Ông nhận biết rõ những mối liên quan giữa địa hình độ sâu của hồ và những nơi trú ẩn của cá loại cá. Ông biết những con cá kiếm ăn như thế nào và chúng di chuyển ra sao từ nơi này đến nơi khác. Lauri cũng hiểu rõ sự thay đổi của thời tiết ảnh hưởng đến việc câu.
Ông đã nghĩ rằng một con mồi giả có thể giúp ông bắt được nhiều cá hơn và kiếm được nhiều tiền hơn. Một con mồi giả được làm rất chau chuốt sẽ giúp tránh khỏi những thử thách về lòng kiên trì khi câu với mồi cá tuế. Những con cá tuế thì sẽ chết, nhưng mồi giả thì không bao giờ chết. Và thế là ông đã dùng những miếng gỗ nhỏ, cắt, xén, và làm theo hình mẫu của con cá nhỏ đến khi một miếng gỗ vô tri trở thành hình.
Lauri làm việc rất miệt mài, nhưng điều ông mong muốn là một chú cá giả với bộ dạng mệt mỏi đã thất bại. Cùng với bạn ông, Akseli Soramaki và một thầy tu trong vùng Pylvalainen sống trên một hòn đảo ở giữa hồ Paijanne, Lauri quan sát rằng con mồi giả của ông bơi không quấn hút như kiểu con cá bị thương. Ông lại tiếp tục thử nghiệm nhiều cách buộc lưỡi khác và trạng bị thêm cho con mồi giả một cái yếm làm bằng tôn lợp mái nhà. Cuối cùng, vào năm 1936, với một con dao chữa giầy, một cái dũa và một mảnh giấy ráp, ông đã tạo ra một con mồi giả chuẩn. Bên ngoài con mồi được bọc bởi một lớp nhôm, đó là vỏ của kẹo chocolat và của cục pho mát ông xin của hàng xóm. Việc đánh véc ni cho con mồi là có thể làm được, ông đã tạo ra bằng giấy phim của máy ảnh để có thể bảo vệ mặt ngoài con mồi. Con mồi này vẫn còn tồn tại đến tận bây giờ, nó có màu đen trên lưng, vàng óng bên sườn và màu trắng ở dưới bụng. Tất cả đều giống như một con cá tuế ở hồ Paijanne.
Mỗi lần câu bằng mồi giả, con mồi được kéo rê với dây gắn trực tiếp ở đầu mẩu để tránh mất mồi. Con mồi mô phỏng giống như con cá tuế mà các loại cá săn mồi như cá hồi và cá chó không ngần ngại nhảy ra để tấn công. Hai người con trai của Lauri là Risto và Ensio đã kể lại rằng, cha họ đã bắt được hơn 300kg cá mỗi ngày với con mồi giả mới.
Lauri tham gia chiến tranh thế giới lần II:
Cuộc chiến bùng nổ ở châu Âu vào năm 1939, gia đình lớn của Lauri sống rất thiếu thốn. May mắn thay, phát minh nho nhỏ của ông đã giúp ông rất nhiều trong việc mang những con cá về nuôi gia đình. Với sự hiểu biết sâu rộng về tự nhiên, ông chuyển sang làm những con mồi giả bằng vỏ của cây thông. Ông tìm thấy vỏ thông ở những khu vực có những cây thông bị gãy. Một vài người chủ đất rất ngạc nhiên khi thấy một người đàn ông đến hỏi mua vỏ thông mà lại không cần đến gỗ. Những cây thông càng cong queo được lột vỏ bằng tay tỉ mỉ từng centimet .
Khi khối Soviet tấn công Phần Lan, Lauri đã đứng lên bảo vệ đất nước. Khi những tên đức quốc xã chống lại khối Soviet, ông đã thay đổi quan điểm, ông đã tham chiến nhưng là để chống lại bọn phát xít đức.
Trong những năm chiến tranh, những con mồi giả do Lauri làm ra đã giúp những người bạn ông câu được rất nhiều cá. Theo những gì mà những người con ông kể lại thì khi ông tham gia quân đội Phần Lan, cá bắt được nhờ mồi giả của ông còn nhiều hơn là dùng thuốc nổ. Lauri bắt được 78 con, nhiều hơn rất nhiều so với những người bạn của ông dùng thuốc nổ băt cá. Sau 6 năm đời lính, ông đã trở về với gia đình mình.
Công việc kinh doanh của gia đình:
Nhu cầu về mồi giả của ông tăng rất nhanh sau chiến tranh. Những người đi nghỉ hè ở vùng hồ Paijanne là fan những con mồi giả của ông. Họ đã làm Lauri rất ngạc nhiên vì ông không nghĩ rằng sẽ có người mua những con mồi ông làm. Tin lành đồn xa về thành công của kiểu câu mới của Lauri và con mồi giả của ông đã lan khắp vùng.
Năm 1948, Bốn người con trai của ông gồm có: Risto, Ensio, Esko và Kauko trở thành những người đàn ông mới nổi. Lauri dạy con nghệ thuật làm mồi giả Rapala và những người con của ông không mất quá nhiều thời gian để học. Đặc biệt có Ensio, người con đã dành được giải trong cuộc thi toàn quốc về nghề thủ công với con mồi làm bằng tay.
Elma (vợ ông) huy động tất cả các nguồn lực để làm những hộp đựng mồi để khuyến mại khi bán những con mồi giả. Bởi bà biết đọc, biết viết, tính toán, bà đảm nhiệm luôn việc kế toán cho công việc gia đình để đảm bảo những lợi ích sức lao động của cả nhà. Việc sản xuất những con mồi giả được làm rất tốt bởi gia đình tôi, Risto nói. Hơn nữa, chúng tôi còn tạo thêm việc làm, đã góp phần gắn bó những thành viên trong gia đình, chúng tôi học được những bài học trong cuộc sống, trên hết là giá trị của lòng trung thực, chính chắn trong công việc. Công việc kinh doanh của gia đình họ đã có những tác động lên cuộc sống của làng.
Tôi nghĩ rằng, ban đầu, không ai để ý đến cha tôi Ensio nói.Sau những gì làm nên công việc kinh doanh của gia đình tôi, có rất nhiều lời bàn tán, nhưng cha tồi đều không để ý đến chúng và cũng không tức giận gì, cha tôi đã làm những điều phải làm.
sau đó Ensio nói thêm, khi chúng tôi bắt đầu làm việc cùng với Normark, họ đã được rất trân trọng vì họ đã mang lại việc làm và tiền bạc cho ngôi làng.
Sự xuất hiện của nhà máy đã cải thiện chất lượng của những con mồi giả và hiệu quả của việc sản xuất. Tín hiệu đầu tiên của việc cơ giới hóa sản xuất là sự xuất hiện của máy quay trang bị dải giấy ráp. Cỗ máy này đã giúp chúng tôi phác thảo và mài nhẵn con mồi giả. Ensio đã phát triển thêm một lưỡi cưa dải để tạo ra những hình mẫu mồi giống nhau.
Chúng tôi, mỗi bộ phận đảm trách mỗi phần khác nhau của con mồi giả Risto nói.Ensio thích sơn mắt mồi giả, tôi thích dán celluloid lên trên bề mặt còn cha tôi thì thích tạo hình con mồi. Chúng tôi tất cả đều tự hào khi hoàn thành công việc của mình.
Cách phân chia công việc của chúng tôi rất tự nhiên Ensio nói thêm chúng tôi làm việc và bổ trợ lẫn nhau bằng khả năng của mỗi người. Sau đó, chúng tôi quản lý công việc kinh doanh cùng theo một logique. Tôi thích quản lý việc kế toán và quản lý các đơn đặt hàng trong khi đó Risto thích quản lý việc sản xuất. Khi việc cơ giới hóa được áp dụng vào việc sản xuất mồi, Lauri vẫn luôn giữ quy tắc chung
Chìa khóa thành công của chúng tôi là sự chính xác Risto nói; Chúng tôi đảm bảo rằng tất cả các con mồi giả luôn đúng với mẫu mã và hình thức của con mồi thật. Chúng tôi kiểm tra sự chính xác này bằng nhiều phương pháp, bởi chỉ cần sai lệch một milimet sẽ ảnh hưởng đến cách bơi của con mồi
Để đảm bảo tất cả các con mồi xuất xưởng một cách hoàn hảo, Lauri đã sử dụng các biện phá thử hệ thống của mỗi con mồi trong nước. Điều này kiểm tra kiểu bơi của mỗi sản phẩm chứ không riêng gì kiểu bơi của cá bị thương. Lauri kiểm tra đầu ra của sản phẩm với con dấu phê chuẩn. Mùa đông, những con mồi này được kiểm định trong một ngôi nhà nổi, còn mùa hè, ông và các con thử nghiệm mồi ở bên bờ hồ Paijanne trong gềnh Kalkkinen.
Cùng với sự tăng trưởng nhanh của việc bán hàng, ông cũng phát triển thêm mẫu mã của những hộp mồi một cách chuyên nghiệp hơn.
Ngày nay, những hộp mồi giả mang tên Rapala đã trở nên thân thuộc với bất cứ cần thủ nào trên toàn thế giới, mỗi năm Rapala sản xuất khoảng 1000 mồi giả.
Nguồn:www.ragot.fr
Dịch bời : Toulon HFC
|
|